Symposium of Post-mysticism/Komeiji Satori
Symposium of Post-mysticism
| ||||
< | Trang 107-109 Mizuhashi Parsee | Trang 110-113 | Trang 114-116: Komeiji Koishi | > |
Năng lực: Năng lực đọc tâm
Mức độ nguy hiểm: Rất cao
Mức độ thân thiện với con người: Không có
Những nơi hoạt động chính: Địa Linh Cung
Trong số những cư dân bị ghét bỏ của Thế giới ngầm, có một nhóm yêu quái mà mức độ bị thù ghét của chúng bỏ xa những yêu quái còn lại, đó là các giác. Chúng không thể chung sống cùng với con người và yêu quái nên khác nên đã chạy trốn tới Cựu Địa Ngục, nhưng ngay cả tại nơi này chúng vẫn bị yêu quái sống ở đây ghét bỏ.
Lý do của sự ghét bỏ này nằm ở việc giác là loài yêu quái có khả năng đọc tâm. Không có bất kỳ ai muốn lại gần một người có thể đọc được suy nghĩ của họ cả. Việc này không chỉ đơn giản là mọi suy nghĩ của bạn đều bị phơi bày, mà còn ở chỗ nó khiến việc trò chuyện một cách thông thường gần như là bất khả thi. Ở Cựu Địa Ngục này cô tự nhốt mình trong một nơi tên là Địa Linh Cung, hoàn toàn không tiếp xúc với người khác.
Không có bất kỳ ai đặt chân tới Địa Linh Cung. Những người đến để gặp cô lại càng không có.
Tuy nhiên những loài thú vật không biết nói lại hết sức yêu quý cô. Đối với động vật, năng lực đọc tâm là thứ năng lực độc nhất vô nhị. Vì vậy mà có rất nhiều thú vật sống trong Địa Linh Cung (*1).
Cô cũng có thể đọc được suy nghĩ của những u linh không bao giờ nói lấy một lời. Vì năng lực này mà các oán linh cũng lản tránh cô. Không như các loài thú vật, oán linh thèm khát việc truyền đạt suy nghĩ của chúng thông qua lời nói. Việc này xuất phát từ lý do hiển nhiên: "Mọi sinh vật dùng lời đều là loài hai mặt".
Cô lợi dụng sự sợ hãi của oán linh đối với mình một cách hiệu quả để quản lý chúng tại Tàn tích của Tiêu Nhiệt Địa Ngục. Vì không có gì giấu được cô, không có bất cứ sự chống đối nào cả. Trùng hợp là người ta nói Địa Linh Cung cũng được xây ngay trên tàn tích này.
Cô còn có một người em gái.
Kaenbyou Rin là một trong số các thú nuôi của cô. Cô còn được gọi là Orin.
Vì Orin có thể trò chuyện được với các oán linh, có vẻ cô là cánh tay đắc lực của Satori. Vì sự thèm khát được trò chuyện đã đề cập ở trên, các oán linh gần gũi hơn với Orin, không phải Satori. Điều này ngụ ý rằng việc quản lý oán linh thực ra chính là công việc của Orin.
Mặc dù nói là quản lý, công việc duy nhất mà cô làm là thống kê sự tăng giảm của chúng, trong khi để chúng chạy loạn tùy ý.
Reiuji Utsuho lại là một thú nuôi khác của Satori. Cô còn được gọi là Okuu.
Sinh ra tại Địa Ngục, những con quạ địa ngục như cô có thể chịu đựng được nhiệt độ ở Tàn tích của Hỏa Địa Ngục. Vì thế cô đảm nhận vai trò điều chỉnh nhiệt độ ở nơi đây.
Cô rất ngốc, nhưng người ta tin rằng những ai có ít sự khôn ngoan thì phù hợp với những công việc đơn giản.
Cô là bạn rất thân với Orin. Vì mọi vật nuôi của Satori đều yêu quý cô, chúng có tình bạn hết sức thân thiết.
Cung điện của Satori là nơi mà cô dùng để cai quản Tàn tích của Tiêu Nhiệt Địa Ngục. Nó được trang bị hệ thống sưởi qua sàn nhà.
Dường như nó quá rộng cho chỉ hai chị em họ ở đây (*2). Nơi này cũng không hề có ai tới viếng thăm.
Ngay cả ở đây dường như Satori cũng không đi lại nhiều, hầu hết cô ở trong phòng đọc và viết sách. Cô đặc biệt thích những câu chuyện mô tả sâu sắc tâm lý nhân vật. Đọc và viết sách có vẻ là một trải nghiệm thú vị đối với một người có khả năng đọc tâm. Có khả năng là một vài cuốn sách viết bởi tác giả nặc danh là do cô viết.
Ngoài ra có vẻ hầu hết nơi đây đều được dùng bởi những vật nuôi của cô, vì thế nó như một sở thú vậy.
Cô là một yêu quái khủng khiếp, nhưng may mắn là bạn sẽ không bao giờ bắt gặp cô.
Nhưng lỡ vạn nhất bạn bắt gặp cô, sẽ an toàn hơn nếu trò chuyện một cách thẳng thắn thay cho vì nghĩ ra một kế hoạch kinh khủng nào đó.
Khá thú vị khi thực ra ta không rõ khả năng chiến đấu của cô thế nào. Nhưng vì cô tự cô lập mình rất nhiều, có thể cô không mạnh cho lắm.
1: Theo lời Reimu: "Cô ta chỉ lợi dụng bọn nó mà thôi".
2: Địa Ngục rất rộng so với trên mặt đất. Cựu Địa Ngục cũng không phải ngọai lệ.
| ||||
< | Trang 107-109 Mizuhashi Parsee | Trang 110-113 | Trang 114-116: Komeiji Koishi | > |
- ↑ It is a misprint of "活かし".