Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Symposium of Post-mysticism/Kasodani Kyouko”

Từ Touhou Wiki - Việt Nam
Bước tới điều hướng Bước tới tìm kiếm
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
 
Dòng 48: Dòng 48:
{{Dual
{{Dual
| ja = 彼女はそんな世を虚しく思い出家した。今は命蓮寺で修行しているようである。修行の内容は、毎日の門前の掃除だという。お寺から聞こえて来るお経の声で、殆どのお経を暗記してしまったようだ(*1)。もちろん意味は理解していない。
| ja = 彼女はそんな世を虚しく思い出家した。今は命蓮寺で修行しているようである。修行の内容は、毎日の門前の掃除だという。お寺から聞こえて来るお経の声で、殆どのお経を暗記してしまったようだ(*1)。もちろん意味は理解していない。
| vi = Vì nghĩ rằng cuộc đời đã trở nên trống rỗng, cô đã xuất gia. Hiện tại có vẻ cô đang tu luyện tại [[Mệnh Liên Tự]]. Nội dung việc tu luyện của cô là hằng ngày quét tước trong chùa. Cô thường nghe thấy tiếng kinh vang lên từ trong chùa, và dường như đã ghi nhớ tất cả chúng (*1). Tất nhiên cô không hiểu chúng mang ý nghĩa gì.
| vi = Vì nghĩ rằng cuộc đời đã trở nên trống rỗng, cô đã xuất gia. Hiện tại có vẻ cô đang tu luyện tại [[Mệnh Liên Tự]]. Nội dung việc tu luyện của cô là hằng ngày quét tước trong chùa. Cô thường nghe thấy tiếng kinh vang lên từ trong chùa, và dường như đã ghi nhớ tất cả chúng (*1). Tất nhiên cô không hiểu chúng nghĩa gì.
}}
}}
{{Dual
{{Dual
| ja = 大きな耳と小さな尻尾を持っている事から判る様に、元は獣の妖怪である。しかし、肉食獣のような凶暴さは持ち合わせていない。大声を上げる癖に比較的臆病で、登山客と鉢合わせするとすぐに姿を消す。そうして離れた所から、大声で「どうだ、驚いたか!」と呼びかけるのである。遠くから大声を上げる者は、基本臆病なのだろう。
| ja = 大きな耳と小さな尻尾を持っている事から判る様に、元は獣の妖怪である。しかし、肉食獣のような凶暴さは持ち合わせていない。大声を上げる癖に比較的臆病で、登山客と鉢合わせするとすぐに姿を消す。そうして離れた所から、大声で「どうだ、驚いたか!」と呼びかけるのである。遠くから大声を上げる者は、基本臆病なのだろう。
| vi = Từ thực tế là cô có tai to và đuôi thú, có thể suy đoán cô vốn là một yêu quái có nguồn gốc từ động vật. Tuy nhiên cô không hề có những đặc tính hung bạo của loài thú ăn thịt. Mặc dù giọng nói của cô rất to, cô lại tương đối nhút nhát, và sẽ trốn đi ngay nếu như gặp phải những người leo núi. Sau đó, từ khoảng cách rất xa, cô sẽ hét lên thật to "Thế nào? Ngạc nhiên không?". Người ta tin rằng những người hét lên từ thật xa như vậy về cơ bản đều là những người nhút nhát.
| vi = Từ thực tế là cô có tai to và đuôi thú, có thể suy đoán cô vốn là một yêu quái có nguồn gốc từ động vật. Tuy nhiên cô không hề có những đặc tính hung bạo của loài thú ăn thịt. Mặc dù giọng nói của cô rất to, cô lại tương đối nhút nhát, và sẽ trốn đi ngay nếu như gặp phải những người leo núi. Sau đó, từ khoảng cách rất xa, cô sẽ hét lên thật to kiểu "Thế nào? Ngạc nhiên không?". Người ta tin rằng những người hét lên từ thật xa như vậy về cơ bản đều là những người nhút nhát.
}}
}}
{{Dual
{{Dual
| ja = ちなみに、一人の時は割と大人しい妖怪の筈だったのだが、最近はお経の独り言を始めたようだ。少しストレスが溜まっているのかも知れない。
| ja = ちなみに、一人の時は割と大人しい妖怪の筈だったのだが、最近はお経の独り言を始めたようだ。少しストレスが溜まっているのかも知れない。
| vi = Cũng nói thêm là mặc dù cô rất yên tĩnh và dễ bảo khi ở một mình, gần đây có vẻ như cô đang bắt đầu tự mình lẩm nhẩm những bài kinh. Có thể cô đang cảm thấy một chút căng thẳng.
| vi = Cũng nói thêm là mặc dù cô rất yên tĩnh và dễ bảo khi ở một mình, có vẻ như gần đây cô đang bắt đầu lẩm nhẩm những bài kinh một mình. Có thể cô đang cảm thấy hơi căng thẳng.
}}
}}
{{Dual|colspan}}
{{Dual|colspan}}
Dòng 65: Dòng 65:
{{Dual
{{Dual
| ja = 山で大声で呼ぶと返事をしてくれる山彦。基本は同じ言葉を繰り返すおうむ返しだが、ある特定のかけ声からは変わった返答が帰ってくる事があるので、私の知っている限り記録した。
| ja = 山で大声で呼ぶと返事をしてくれる山彦。基本は同じ言葉を繰り返すおうむ返しだが、ある特定のかけ声からは変わった返答が帰ってくる事があるので、私の知っている限り記録した。
| vi = Sơn ngạn sẽ phản hồi nếu như bạn hét thật to về phía núi. Về cơ bản chúng lặp lại chính những câu chữ đó. Nhưng có một số trường hợp đặc biệt trong đó câu trả lời bị thay đổi chút ít. Tôi đã ghi lại những gì mà mình biết.
| vi = Sơn ngạn sẽ phản hồi nếu như bạn hét thật to về phía núi. Về cơ bản chúng chỉ lặp lại chính những câu chữ đó. Nhưng có một số trường hợp đặc biệt trong đó câu trả lời bị thay đổi chút ít. Tôi đã ghi lại những gì mà mình biết.
}}
}}
{{Dual
{{Dual
| ja = 「ヤッホー!」→「ヤフー!」<br />基本形、慣れた発音での返答。<br />
| ja = 「ヤッホー!」→「ヤフー!」<br />基本形、慣れた発音での返答。<br />
「バカヤロー!」→「何だとテメー!」<br />青春形、ヤンキー形とも言う。<br />
 「バカヤロー!」→「何だとテメー!」<br />青春形、ヤンキー形とも言う。<br />
「すみませーん!」→「こちらこそー!」<br />大人は礼儀正しい。<br />
 「すみませーん!」→「こちらこそー!」<br />大人は礼儀正しい。<br />
「ヤマー!」→「カワー!」<br />山川さん限定。<br />
 「ヤマー!」→「カワー!」<br />山川さん限定。<br />
「今何時ー!」→「そうね大体ねー!」<br />時計ツール形、大体の時刻が判る。<br />
 「今何時ー!」→「そうね大体ねー!」<br />時計ツール形、大体の時刻が判る。<br />
「いち足すいちはー?」→「……」<br />算数苦手形。
 「いち足すいちはー?」→「……」<br />算数苦手形。
| vi = "Yahhou!" -> "Yafuu!"<br />
| vi = "Yahhou!" -> "Yafuu!"<br />
 Dạng cơ bản, trả lời lại theo thói quen phát âm của chúng.<br />
 Dạng cơ bản, trả lời lại theo thói quen phát âm của chúng.<br />
 "Đồ ngốc!" -> "Ngươi vừa nói gì cơ?"<br />
 "Đồ ngốc!" -> "Ngươi vừa nói gì cơ?"<br />
 Dạng trẻ tuổi, còn gọi là dạng cộc cằn.<br />
 Dạng nông nỗi, còn gọi là dạng cộc cằn.<br />
 "Tôi xin lỗi!" -> "Là lỗi của tôi!"<br />
 "Tôi xin lỗi!" -> "Là lỗi của tôi!"<br />
 Người lớn có cách cư xử đúng mực.<br />
 Người lớn có cách cư xử đúng mực.<br />
 "Núi!" -> "Sông!"<ref>Một dạng mật mã mà các nhẫn giã dùng giao tiếp với nhau, nhưng dần trở nên phổ biến trong quần chúng. Khi một nhẫn giả trở về, người gác cổng sẽ nói {{nihongo|"núi"|山|yama}}. Nếu người kia đáp lại là {{nihongo|"sông"|川|kawa}} thì họ sẽ được cho vào, nếu không họ sẽ buổi đi hoặc sát hại.</ref><br />
 "Núi!" -> "Sông!"<ref>Một dạng mật mã mà các nhẫn giã dùng giao tiếp với nhau, nhưng dần trở nên phổ biến trong quần chúng. Khi một nhẫn giả trở về, người gác cổng sẽ nói {{nihongo|"núi"|山|yama}}. Nếu người kia đáp lại là {{nihongo|"sông"|川|kawa}} thì họ sẽ được cho vào, nếu không họ sẽ đuổi đi hoặc sát hại.</ref><br />
 Chỉ dùng được với anh Yamakawa.<br />
 Chỉ dùng được với anh Yamakawa.<br />
 "Mấy giờ rồi?" -> "Khoảng... !"<ref>Lấy từ bài hát đầu tay của nhóm [[Wikipedia:Southern All Stars|Southern All Stars]], bài [http://www.youtube.com/watch?v=RbOzrCDUo38 "Katte ni Sinbad"].</ref><br />
 "Mấy giờ rồi?" -> "Khoảng... !"<ref>Lấy từ bài [http://www.youtube.com/watch?v=RbOzrCDUo38 ''Katte ni Sinbad''], bài hát đầu tay của nhóm [[Wikipedia:Southern All Stars|Southern All Stars]].</ref><br />
 Dạng đồng hồ, chúng có thể đoán gần đúng thời gian hiện tại.<br />
 Dạng đồng hồ, chúng có thể đoán gần đúng thời gian hiện tại.<br />
 "Một cộng một bằng mấy!?" -> "..."<br />
 "Một cộng một bằng mấy!?" -> "..."<br />
Dòng 100: Dòng 100:
{{Dual
{{Dual
| ja = しかし、余りうるさくしていると、山にいる別の妖怪が出てきてしまうかも知れないので、程々に。
| ja = しかし、余りうるさくしていると、山にいる別の妖怪が出てきてしまうかも知れないので、程々に。
| vi = Mặc khác nếu quá ồn ào, những yêu quái trong núi sẽ mò ra, vì thế hãy biết chừng mực.
| vi = Mặt khác nếu quá ồn ào, những yêu quái trong núi sẽ mò ra, vì thế hãy biết chừng mực.
}}
}}
{{Dual|colspan}}
{{Dual|colspan}}

Bản mới nhất lúc 14:04, ngày 15 tháng 10 năm 2020

Symposium of Post-mysticism

< Trang 79-81 Murasa Minamitsu   Trang 85-87  Trang 82-84: Kumoi Ichirin & Unzan  >

sơn ngạn tụng kinh

Năng lực: Năng lực phản xạ âm thanh

Mức độ nguy hiểm: Thấp

Mức độ thân thiện với con người: Rất cao

Những nơi hoạt động chính: Núi Yêu Quái, Mệnh Liên Tự


 Nếu bạn hét thật lớn về phía núi, chắc chắn yêu quái sơn ngạn sẽ hồi đáp trở lại. Chúng là loài yêu quái đã xuất hiện từ thời rất xa xưa, và bất kỳ ngọn núi nào cũng có sự hiện diện của chúng.
 Chúng là những yêu quái hoạt bát và tươi vui, nếu ai đó hét lên một cách vui vẻ thì chúng cũng sẽ đáp lại một cách rất vui vẻ và ngược lại, những tiếng hét giận dữ sẽ bị chúng đáp lại bằng những âm thanh với sự giận dữ tương đương. Nhưng trong những năm gần đây có vẻ như số lượng của chúng đã giảm đi một cách đáng kể.
 Nguyên nhân là do trong thôn bắt đầu lan truyền lời đồn rằng sự thật đằng sau âm thanh của các sơn ngạn chỉ là sự phản xạ âm thanh, vì thế số người đến nói chuyện với chúng bằng cách hét về phía núi ngày càng trở nên ít đi. Nhiều sơn ngạn đã cảm thấy ý nghĩa cho sự tồn tại của chúng đã không còn nữa, và có vẻ như chúng đang biến mất một cách tự nhiên.

 Vì nghĩ rằng cuộc đời đã trở nên trống rỗng, cô đã xuất gia. Hiện tại có vẻ cô đang tu luyện tại Mệnh Liên Tự. Nội dung việc tu luyện của cô là hằng ngày quét tước trong chùa. Cô thường nghe thấy tiếng kinh vang lên từ trong chùa, và dường như đã ghi nhớ tất cả chúng (*1). Tất nhiên cô không hiểu chúng có nghĩa gì.

 Từ thực tế là cô có tai to và đuôi thú, có thể suy đoán cô vốn là một yêu quái có nguồn gốc từ động vật. Tuy nhiên cô không hề có những đặc tính hung bạo của loài thú ăn thịt. Mặc dù giọng nói của cô rất to, cô lại tương đối nhút nhát, và sẽ trốn đi ngay nếu như gặp phải những người leo núi. Sau đó, từ khoảng cách rất xa, cô sẽ hét lên thật to kiểu "Thế nào? Ngạc nhiên không?". Người ta tin rằng những người hét lên từ thật xa như vậy về cơ bản đều là những người nhút nhát.

 Cũng nói thêm là mặc dù cô rất yên tĩnh và dễ bảo khi ở một mình, có vẻ như gần đây cô đang bắt đầu lẩm nhẩm những bài kinh một mình. Có thể cô đang cảm thấy hơi căng thẳng.


Tổng hợp những lời hồi đáp của sơn ngạn

 Sơn ngạn sẽ phản hồi nếu như bạn hét thật to về phía núi. Về cơ bản chúng chỉ lặp lại chính những câu chữ đó. Nhưng có một số trường hợp đặc biệt trong đó câu trả lời bị thay đổi chút ít. Tôi đã ghi lại những gì mà mình biết.

 "Yahhou!" -> "Yafuu!"
 Dạng cơ bản, trả lời lại theo thói quen phát âm của chúng.
 "Đồ ngốc!" -> "Ngươi vừa nói gì cơ?"
 Dạng nông nỗi, còn gọi là dạng cộc cằn.
 "Tôi xin lỗi!" -> "Là lỗi của tôi!"
 Người lớn có cách cư xử đúng mực.
 "Núi!" -> "Sông!"[1]
 Chỉ dùng được với anh Yamakawa.
 "Mấy giờ rồi?" -> "Khoảng... !"[2]
 Dạng đồng hồ, chúng có thể đoán gần đúng thời gian hiện tại.
 "Một cộng một bằng mấy!?" -> "..."
 Dạng yếu toán.


Cách tiếp cận

 Trừ phi bạn chủ động tấn công, nếu không sẽ không có mối nguy hiểm đặc biệt nào. Cô là một yêu quái có tính cách rất ôn hòa. Vào một ngày đẹp trời, bạn có thể chơi đùa cùng cô bằng cách hướng về phía núi mà hét thật to.
 Gần đây cô thường ở trong Mệnh Liên Tự, vì thế không nên nói lớn tiếng trong chùa để tránh gây phiền nhiễu.

 Mặt khác nếu quá ồn ào, những yêu quái trong núi sẽ mò ra, vì thế hãy biết chừng mực.


(*1) Yêu quái trước cổng chùa tụng thứ kinh không được ai dạy cho.[3]

[[Category:]]

< Trang 79-81 Murasa Minamitsu   Trang 85-87  Trang 82-84: Kumoi Ichirin & Unzan  >

  1. Một dạng mật mã mà các nhẫn giã dùng giao tiếp với nhau, nhưng dần trở nên phổ biến trong quần chúng. Khi một nhẫn giả trở về, người gác cổng sẽ nói "núi" ( yama). Nếu người kia đáp lại là "sông" ( kawa) thì họ sẽ được cho vào, nếu không họ sẽ đuổi đi hoặc sát hại.
  2. Lấy từ bài Katte ni Sinbad, bài hát đầu tay của nhóm Southern All Stars.
  3. Lấy từ một thành ngữ của Nhật Bản là "Chú tiểu trước cổng chùa tụng thứ kinh không được ai dạy cho" (門前の小僧習わぬ経を読む monzen no kozou narawanu kyou o yomu), nghĩa bóng "môi trường sống tác động và tạo nên tính cách của con người").